d) Phương pháp nghiên cứu
Nuôi cấy và phân lập các chủng vi sinh vật, xác định hoạt độ α-amylase bằng DNS,
xác định protein tổng bằng phương pháp Bradford, định tên vi sinh vật, tinh sạch α-amylase
bằng phương pháp kết tủa muối, màng lọc, điện di SDS-PAGE, các phương pháp xác định
một số chỉ tiêu chất lượng bánh mì.
e) Kết luận:
Đề tài đã đạt được những kết quả như sau:
1. Đã phân lập, tuyển chọn và định tên được chủng Aspergillus oryzae L1 có khả năng sinh
tổng hợp α-amylase cao nhất trong số 17 chủng nấm mốc đã phân lập.
2. Đã khảo sát được chủng Aspergillus oryzae L1 có khả năng sinh tổng hợp α-amylase cao
nhất sau 102 giờ nuôi cấy trong môi trường sinh tổng hợp α-amylase, nồng độ cơ chất tinh
bột: 1.67g/100ml, tỷ lệ cấp giống 10
7
bào tử/ml, hoạt độ enzym đạt được tương ứng là
134,6U/ml.
3. Đã tạo ra được quy trình tinh sạch enzym α-amylase theo các bước: enzym thô → kết tủa
muối → lọc cut-off → thu được enzym kỹ thuật, hiệu suất tinh sạch đạt 53,56%.
4. Đã tinh sạch sơ bộ α-amylase có khối lượng phân tử khoảng 45 KDa từ chủng nấm mốc
Aspergillus oryzae L1. Đã khảo sát được nhiệt độ tối ưu, pH tối ưu, độ bền nhiệt và độ bền
pH của α-amylase: enzym hoạt động tối tích trong môi trường có pH 5.5 và cũng bền ở pH
này, kém trong các dải pH khác; α-amylase từ A. oryzae L1 là enzym không bền nhiệt, bị
bất hoạt nhanh ở nhiệt độ > 55
o
C, nhiệt độ tối ưu của enzym này là 30
o
C.
5. Đã chứng minh được α-amylase của đề tài đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh theo
tiêu chuẩn quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Bước đầu ứng dụng α-amylase trong sản
xuất bánh mì, lượng α-amylase thô tối thích bổ sung vào bánh mì là 3000 IU/kg bột mì. Kết
hợp α-amylase và xylanase trong sản xuất bánh mì cho thấy: tỉ lệ thích hợp nhất là 3000U α-
amylase + 400U xylanase/ kg bột.