
7
Lâm, Lộc Yên, Thạch Đạn, Thanh Lòa, thị trấn Đồng Đăng và một phần của xã
Thụy Hùng. Ngoài ra, Đà Lạt cũng là tỉnh có diện tích trồng hồng lớn, lúc cao điểm,
toàn tỉnh có đến 2.500ha hồng ăn quả, nhƣng nay chỉ còn khoảng 2.000ha. Hồng ăn
quả đƣợc trồng nhiều ở các huyện Đơn Dƣơng, Lạc Dƣơng, Đức Trọng và thành
phố Đà Lạt.
Hình thức tiêu thụ: Ở các tỉnh phía bắc hồng đƣợc tiêu thụ dƣới dạng sản
phẩm tƣơi là chủ yếu. Ở Lâm Đồng, các sản phẩm hồng sấy khô chiếm khoảng
10%, còn lại (90%) là tiêu thụ tƣơi, bán đi các tỉnh xa nhƣ thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội
1.3. Biến đổi sau thu hoạch của quả hồng
1.3.1. Biến đổi sinh lý, sinh hóa
a. Hô hấp:
Hồng là loại quả hô hấp đột biến. Cƣờng độ hô hấp của quả hồng ở những
điều kiện nhiệt độ khác nhau. Tại 0
0
C cƣờng độ hô hấp là 2-4ml CO
2
/kg.giờ, ở 20
0
C
là 10-12ml CO
2
/kg.giờ. Tỷ lệ sản sinh ethylene >0,1µl/kg.giờ ở 0
0
C, 0,1-0,5 µl/kg.giờ
ở 20
0
C. Hồng rất nhạy cảm với ethylene. Trong điều kiện 20
0
C tiếp xúc với ethylene
ở nồng độ 1ppm và 10 ppm thì tốc độ chín nhanh sau 6 ngày và 2 ngày [23].
b. Những biến đổi sinh hóa:
Trong khi hồng chín, quá trình làm mềm quả đƣợc gây ra bởi hoạt động thủy
phân của enzyme thủy phân thành tế bào (Nakano et al.,2003). Trong các loài
enzyme tham gia sự trao đổi chất của các tế bào và ảnh hƣởng tới độ hòa tan của
các đại phân tử tế bào bao gồm endo- 1,4-beta-glucanase (endo-1,4-ß-gluc), pectin
methylesterase (PME), polygalacturonaza (PG) và beta-galactosidase (ß-gal)
(Brummell, 2006; Nakamura và cộng sự, 2003) [19,42]. Sự chín là kết quả sản sinh
ethylene và việc vận chuyển các protein trong quá trình hòa tan các hợp chất pectin
trong vách tế bào (Rose et al., 1998). Báo cáo của Pegoraro et al. (2010) cho biết có
thể sử dụng phƣơng pháp điều hòa sinh trƣởng hoặc phƣơng pháp vật lý trƣớc khi
đƣa vào lƣu trữ, có thể góp phần vào việc bảo tồn nội cân bằng tế bào và ngăn chặn
thiệt hại do bảo quản lạnh [44]. Theo nghiên cứu của Smith et al. (1992) beta-